Lịch sử ra đời của tỉnh Quảng Ninh
Ngày 30/10/1963, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã quyết định hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh. Từ ngày 1/1/1964, tỉnh Quảng Ninh đi vào hoạt động chính thức, tạo một thể liên hoàn cả về chính trị, kinh tế, quân sự, phát huy được sức mạnh tổng hợp của vùng Đông Bắc Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã vạch ra đường lối và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Nhân dân khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh cùng với nhân dân miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
Để triển khai nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đảng bộ khu Hồng Quảng và Đảng bộ tỉnh Hải Ninh đã trải qua hai kỳ đại hội, đó là Đại hội lần thứ V (kỳ 2) từ ngày 16/1 - 2/2/1961 và lần thứ VI từ ngày 10/6 - 16/6/1963 của Đảng bộ tỉnh Hải Ninh; Đại hội lần thứ I (kỳ 2) từ ngày 31/1 - 9/2/1961 và Đại hội lần thứ II từ ngày 11/9 - 16/9/1963 của Đảng bộ khu Hồng Quảng.
Về lịch sử ra đời của tỉnh Quảng Ninh, theo các tài liệu văn kiện năm 1963 đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Quảng Ninh (Sở Nội vụ), trong đó có các biên bản và nghị quyết kỳ họp HĐND đặc biệt, kỳ họp liên tịch giữa HĐND khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh về việc đặt tên tỉnh Quảng Ninh năm 1963. Các biên bản ghi rõ các ý kiến tranh luận về việc đặt tên tỉnh. Có nhiều tên gọi được đưa ra như Hải Đông, An Quảng, Yên Quảng, Hồng Hải… Nhưng không chọn được phương án nào.
Nghị quyết của Quốc hội khóa II về việc sáp nhập tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh, ngày 30/10/1963.
Về việc đặt tên cho tỉnh Quảng Ninh, cố nhà giáo Tống Khắc Hài, người tham gia biên soạn cuốn Địa chí Quảng Ninh từng ghi lại lời kể của đồng chí Hoàng Chính, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Ninh (1964-1969). Nguyên văn lời kể như sau:
“Ngày 30/10/1963, trong phiên họp toàn thể Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ 7, tất cả các đại biểu đều nhất trí thông qua tờ trình của Chính phủ hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Quảng Ninh. Thế nhưng, thực ra trước đó ít nhất là 3 năm, Bộ Chính trị khi chuẩn bị Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III và Chính phủ soạn thảo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vấn đề xây dựng vùng Đông Bắc thành một đơn vị hành chính vững mạnh đã được đặt ra một cách cấp bách. Với Bác Hồ thì tôi trực tiếp cảm nhận được ý tưởng của Người về điều này là từ lần đón Bác về thăm tỉnh Hải Ninh ngày 19 và 20/2/1960.
Hôm ấy, ngồi trên máy bay trực thăng, khi qua đảo Cái Bầu, máy bay rẽ chếch sang phía trái, tôi nhìn xuống chỉ thấy mênh mông rừng ngập mặn, chưa nhận ra đất Ba Chẽ hay Tiên Yên, bỗng Bác hỏi tôi: “Đây là đâu rồi?”. Tôi chưa kịp trả lời thì Bác đã giải thích: “Hải Ninh và Hồng Quảng núi sông biển trời liền một dải. An Quảng, Quảng Yên là đây, xa hơn nữa là An Bang, là Hải Đông, có đúng không chú Hoàn?”. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an ngồi bên thưa với Bác: “Dạ thưa Bác, An Bang là thời Lê, Hải Đông là thời Trần”. Bác nói thêm: “Thời Trần, Hải Đông lừng lẫy chiến thắng Bạch Đằng giang”.
Ba năm sau, giữa năm 1963, việc hợp nhất hai địa phương đã được Trung ương quyết định, chỉ còn việc đặt tên tỉnh.
Giữa tháng 9 năm ấy, tôi về Hà Nội dự cuộc họp các Bí thư Tỉnh ủy. Buổi họp kết thúc, Bác bảo tôi ở lại ăn cơm với Người. Trong bữa cơm, Bác hỏi tôi về chuyện đặt tên tỉnh. Tôi thưa lại kết quả thảo luận tại các kỳ họp HĐND tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng. Bác nói: “Bác đã hỏi ý kiến nhiều đồng chí, Bác đề nghị lấy mỗi tỉnh một chữ cuối của khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh, ghép lại thành Quảng Ninh, vừa dễ hiểu, vừa dễ nhớ, lại có nhiều nghĩa. “Quảng” là rộng lớn, “Ninh” là yên vui, bền vững. Quảng Ninh là một vùng rộng lớn, yên vui, bền vững. Ông cha ta đã chẳng từng đặt những tên An Bang, Ninh Hải, Hải Ninh, An Quảng, Quảng Yên đó sao? Chú thấy có được không?”. Tôi hiểu ra ý nghĩa sâu xa của hai chữ Quảng Ninh nên không thể không cảm phục Bác. Lát sau Bác nói thêm: “Nước bạn có Quảng Đông, Quảng Tây, ta có Quảng Ninh. Đôi bên cùng nhau xây dựng tình hữu nghị, cùng nhau thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Sau khi Quốc hội có Nghị quyết nhất trí thông qua đề nghị của Hội đồng Chính phủ về việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh, hai địa phương đã khẩn trương tiến hành các bước hợp nhất. Ngày 1/1/1964, các con dấu cũ được thu hồi và các con dấu mới mang tên Quảng Ninh chính thức có hiệu lực. Đồng chí Nguyễn Thọ Chân, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy Hồng Quảng, được Trung ương chỉ định là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh. Đồng chí Hoàng Chính, Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh được chỉ định là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Ninh.
Sau khi hợp nhất, tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính gồm 3 thị xã: Hồng Gai (tỉnh lỵ), Cẩm Phả, Uông Bí và 11 huyện: Ba Chẽ, Bình Liêu, Cẩm Phả, Đầm Hà, Đình Lập, Đông Triều, Hà Cối, Hoành Bồ, Móng Cái, Tiên Yên, Yên Hưng.
Việc tỉnh Quảng Ninh được thành lập là một dấu mốc rất quan trọng để giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc Quảng Ninh bước vào một thời kỳ cách mạng mới, là tiền đề để có một Quảng Ninh phát triển như ngày hôm nay.
Theo baoquangninh.vn
Tin tức khác
- Hạ Long Triều cường dâng cao, người dân chật vật di chuyển
- Triển khai phun hóa chất diệt muỗi phòng chống sốt xuất huyết tại Tổ 11 Khu 4 phường Trần Hưng Đạo
- Trường THCS Kim Đồng kỷ niệm 60 năm thành lập (1964-2024)
- 13.500 người từ 55 nước tham gia giải chạy Di sản Hạ Long
- Tài liệu giới thiệu về mục đích, ý nghĩa và các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam 2024